Tham luận tại Hội thảo khoa học chủ đề “Đề xuất các nhóm giải pháp khả thi góp phần giải quyết việc làm cho đồng bào Khmer tại huyện Giang Thành”

Giang Thành là huyện biên giới, có diện tích tự nhiên 41.284,34 ha, có 35,646 km đường biên giới bộ giáp với 3 huyện phía Campuchia, có 1 cửa khẩu quốc gia và 4 đường mòn, lối mở; huyện có 5 xã, với 29 ấp, 180 tổ nhân dân tự quản, dân số 30.016 người, có 4 dân tộc chính: Kinh, Khmer, Hoa, Mường. Trong đó đồng bào dân tộc Khmer có 6.543 người, chiếm 21,57%. Đồng bào dân tộc Khmer sinh sống tập trung ở 03 xã (Phú Lợi, Phú Mỹ, Tân Khánh Hòa) chủ yếu làm nông nghiệp. Hộ nghèo trong đồng bào dân tộc Khmer có 51 hộ với 202 khẩu, chiếm 34,9% so với hộ nghèo chung toàn huyện (146 hộ chếm 1,76%). Nguồn lao động dồi dào, tổng dân số trong độ tuổi lao động năm 2023 là 19.340, tỷ lệ 64,4%. Tuy nhiên, mặt bằng dân trí không đồng đều, việc làm của người dân thường bấp bênh, không ổn định. Vì vậy những năm qua, huyện luôn quan tâm đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người dân, nhất là đối với đồng bào dân tộc Khmer.

Về tình hình kinh tế - xã hội của huyện Giang Thành, năm 2023 là năm thứ ba thực hiện các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ và kế hoạch Nhà nước 5 năm của huyện, UBND huyện đã kịp thời triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp nhằm tiếp tục phục hồi, phát triển kinh tế, xã hội. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện năm 2023 đạt được những kết quả nhất định, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu: kết quả 22/23 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch. Thu nhập bình quân đầu người theo tiêu chí nông thôn mới ước tính 46,08 triệu đồng/người/năm.

Kinh tế tiếp tục ổn định và có bước tăng trưởng. Sản xuất lúa năm 2023 tiếp tục thắng lợi, đạt và vượt cả về diện tích và sản lượng, bên cạnh đó giá lúa năm 2023 khá cao, bà con nông dân trúng mùa, trúng giá nên rất phấn khởi. Giá trị sản xuất lĩnh vực nông, lâm, thủy sản năm 2023 ước đạt gần 4.170 tỷ đồng. Tổng diện tích sản xuất lúa 72.545ha, năng suất 6,39 tấn/ha, tổng sản lượng 463.458 tấn. Diện tích thả nuôi thủy sản 3.525ha, sản lượng 7.880 tấn. Khai thác thủy sản nội địa được 230 tấn. Trên địa bàn huyện hiện có 04 trang trại chăn nuôi đang hoạt đồng gồm: 01 trang trại chăn nuôi heo với công suất 5.000 con/lượt, 02 trang trại chăn nuôi gà với công suất 20.000 con/lượt và 01 trang trại chăn nuôi vịt với công suất 15.000 con/lượt.

Về kinh tế tập thể, toàn huyện hiện có 25 Hợp tác xã với 700 thành viên, vốn điều lệ 1.135 triệu đồng, diện tích 3.845ha; 54 Tổ hợp tác với 779 thành viên, diện tích sản xuất 2.578ha. Chất lượng hoạt động có mặt nâng lên, nhất là đối với các HTX, THT tham gia các các chương trình, dự án hỗ trợ sản xuất và có liên kết tiêu thụ với doanh nghiệp.

Giá trị sản xuất Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp ước đạt 63,5 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước đạt 620,95 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá ước đạt 24,05 triệu USD.

Lĩnh vực đầu tư công được quan tâm chỉ đạo quyết liệt, khối lượng hoàn thành và giá trị cấp phát đạt cao so kế hoạch. Tổng kế hoạch đầu tư năm 2023 là 175.833 triệu đồng, bố trí 43 công trình. Đến nay, tỷ lệ lộ giao thông nông thôn được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt 93,37%, đường trục xã đạt 100%, đường trục ấp đạt 91,9%.

Tổng thu ngân sách nhà nước 614.170 triệu đồng; trong đó, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện 24.256 triệu đồng, đạt 100,65% kế hoạch.

 Tình hình lấn, chiếm đất đai, khiếu nại, tranh chấp về đất đai có chiều hướng giảm dần so với trước đây. Các chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai cơ bản đảm bảo theo yêu cầu; xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo; thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các ngành và với các cơ quan, đơn vị của tỉnh, qua đó kịp thời hướng dẫn, hỗ trợ các xã trong thực hiện các tiêu chí, nhất là đối với xã Phú Lợi (nông thôn mới) và Vĩnh Phú (nông thôn mới nâng cao).

Lĩnh vực văn hóa xã hội được tập trung thực hiện hiệu quả. Các chính sách an sinh xã hội, chăm lo gia đình chính sách, người có công được triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời. Công tác giảm nghèo được lãnh đạo có kết quả tích cực. Hệ thống trường, lớp học tiếp tục được đầu tư nâng cấp, thiết bị giáo dục được bổ sung, tất cả các đơn vị trường đều được trang bị tivi, đầu chiếu Projector, bảng tương tác thông minh và các phần mềm, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy và hội họp. Triển khai kiểm soát tốt tình hình bệnh dịch lưu hành cũng như các dịch bệnh truyền nhiễm mới, không để xảy ra dịch lớn. Tình hình dân tộc, tôn giáo tiếp tục ổn định.

Quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường; trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác cải cách hành chính và kiểm soát thủ tục hành chính được tăng cường, chỉ đạo thường xuyên đảm bảo hiệu quả.

Về tình hình lao động, việc làm, qua khảo sát cung cầu lao động năm 2023, số lao động có việc làm thường xuyên là 13.289 người, tỷ lệ 68% so với tổng số lao động. Trong đó lao động dân tộc Khmer có việc làm thường xuyên là 2.257 người, chiếm 57,8% so với tổng số lao động người dân tộc Khmer. Tỷ lệ lao động Khmer tham gia hoạt động lĩnh vực khác ngoài nông nghiệp gần 25%. Tỷ lệ lao động Khmer qua đào tạo tương đương 18%.

Nhằm cụ thể hóa các chương trình, chính sách của trên như Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 được ban hành kèm theo Nghị quyết số 88/2019/ NQ-QH14 của Quốc hội khóa XIV, Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025. Thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện đã có nhiều nổ lực tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện của huyện trên các lĩnh vực. Trong đó, việc đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc Khmer được chú trọng, nâng cao đời sống, thu nhập.

Theo báo cáo tại Đại hội Đảng bộ huyện Giang Thành lần thứ XIII, đến hết năm 2020, chất lượng nguồn lao động và tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ chỉ đạt 44%, đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn hiệu quả sử dụng thấp. Do đó, giải quyết việc làm cho người dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng được cụ thể hóa trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2020 - 2025. Mục tiêu được xác lập rõ ràng: “Đến năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 24%, tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp đạt 60%, tỷ lệ thất nghiệp là 0,5%”.

Để phấn đấu hoàn thành các mục tiêu trên, Huyện ủy, UBND huyện trong những năm qua đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với tình hình thực tiễn. Nhiều giải pháp đã được triển khai với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đảng bộ huyện đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo thực hiện công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động địa phương. Trên cơ sở đó, UBND huyện ban hành kế hoạch và chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành tổ chức thực hiện trong từng năm, giai đoạn cụ thể.

Cụ thể hóa các chính sách trên, những năm gần đây, huyện cũng đã vận dụng một số cách làm hay, hiệu quả trong giải quyết việc làm cho đồng bào DTTS như: Tổ chức ngày hội việc làm hỗ trợ lao động là thanh niên người DTTS tiếp cận thuận lợi với các thông tin về thị trường lao động, cơ hội việc làm; kết nối các doanh nghiệp phối hợp với cơ sở giáo dục, dạy nghề tư vấn, hướng nghiệp nhằm tăng cường dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm, kết nối việc làm cho thanh niên là người DTTS; tập huấn kỹ năng phỏng vấn, xin việc; hỗ trợ người lao động tìm kiếm chỗ ăn chỗ nghỉ để yên tâm làm việc…

Ngày hội việc làm hằng năm đã thu hút nhiều đơn vị, doanh nghiệp và trên học sinh, thanh niên, người lao động tham gia. Tại ngày hội việc làm năm 2023, hàng trăm người lao động được cung cấp thông tin thị trường lao động, thông tin tuyển sinh; trong đó có trên 600 người được tư vấn việc làm, nghề học và đã có 215 người được kết nối việc làm, tuyển sinh nghề học, trong đó trên 30% là người DTTS; có 08 người được xuất cảnh theo hợp đồng lao động. Năm 2023, huyện đã giới thiệu được giải quyết việc làm được 1.480/1.450 lượt lao động, đạt 102,06% kế hoạch; quý I/2024 thực hiện được 392/1.450, đạt 27,03% kế hoạch; chủ yếu là việc làm trong nước và đa số đi làm ngoài tỉnh (trên 70%). Việc thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn giải quyết việc làm cũng được quan tâm thực hiện tốt; đến nay lũy kế cho vay giải quyết việc làm là 27,353 tỷ đồng.

Các xã hằng năm đều tổ chức các lớp dạy nghề, đào tạo nghề ngắn và dài hạn ở các ấp nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống. Từ năm 2020-2023, đã mở được 57 lớp đào tạo nghề lao động nông thôn với hơn 1.890 học viên tham gia. Nghề được đào tạo chủ yếu là may dân dụng, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, nuôi tôm quảng canh, quảng canh cải tiến, nuôi cua biển, sản xuất giống thủy sản, chăn nuôi thú y, đan đệm bàng, sửa xe gắn máy... Sau khi được đào tạo, một số lao động xin đi làm việc tại một số công ty, xí nghiệp phù hợp với nghề được đào tạo. Một số lao động tham gia hoạt động sản xuất, lao động tại gia đình, địa phương; tự tạo việc làm tại chỗ. Tỷ lệ lao động ứng dụng nghề đã được đào tạo để làm việc, sản xuất khoảng 30%, một số ngành đào tạo phát huy hiệu quả như đan đệm bàn, nuôi thủy sản…

 Bên cạnh đó, huyện cũng triển khai tốt các dự án từ các Chương trình mục tiêu quốc gia đễ hỗ trợ việc làm đối với hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo DTTS luôn được quan tâm. UBND huyện xây dựng kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, cụ thể: thực hiện mô hình dự án 2 đa dạng hóa sinh kế, dự án 3 hỗ trợ phát triển sản xuất lĩnh vực nông nghiệp. năm 2023 đã triển khai 16 mô hình trong đó 10 mô hình chăn nuôi bò sinh sản với 93 hộ tham gia; 02 mô hình đan đát bằng dây cỏ bàng có 43 hộ tham gia; 03 mô hình hỗ trợ phương tiện sản xuất với 55 hộ tham gia; 01 mô hình sản xuất lúa hàng hóa có 08 hộ tham gia với tổng kinh phí hỗ trợ 2.925 triệu đồng. Trong đó, ưu tiên đối tượng tham gia là hộ dân tộc Khmer. Hiện các mô hình đang hoạt động tốt.

Chương trình mục tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hỗ trợ hộ nghèo người Khmer và hộ nghèo người Kinh sinh sống vùng đặc biệt khó khăn không đất hoặc thiếu đất sản xuất  chuyển đổi nghề được 56 hộ với tổng kinh phí 560 triệu đồng. Dự án 3 của Chương trình về hỗ trợ phát triển sản xuất được phân bổ tổng vốn 2,5 tỷ đồng hỗ trợ cho gần 200 hộ vùng đồng bào dân tôc thiểu số phát triển các mô hình sinh kế.

Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn thanh niên ở địa phương cũng hỗ trợ, đồng hành cùng thanh niên DTTS khởi nghiệp, lập nghiệp thông qua việc thành lập và duy trì các câu lạc bộ khởi nghiệp; triển khai các hoạt động tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về khởi nghiệp, lập nghiệp cho thanh niên; tổ chức cho các bạn trẻ giao lưu, học hỏi với những nhà đầu tư, doanh nghiệp đã khởi nghiệp thành công từ số vốn nhỏ… Từ đó giúp các bạn trẻ DTTS&MN nắm rõ hơn những nhận thức chung về phát triển kinh tế; kỹ năng xây dựng hồ sơ gọi vốn, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; kỹ năng thành lập và phát triển doanh nghiệp; kỹ năng quản trị doanh nghiệp trong thời kỳ mới; kiến thức chung về ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế; cùng nhau học hỏi, trao đổi kinh nghiệm để vươn lên thoát nghèo... Phát huy nội lực của sức trẻ, phong trào khởi nghiệp, lập nghiệp đã lan tỏa rộng rãi khu vực đồng bào DTTS&MN với nhiều mô hình kinh tế hay, cách làm sáng tạo, khai thác được thế mạnh địa phương như: Mô hình tổ hợp trang trại chăn nuôi lợn thịt tập trung theo hướng công nghiệp xanh - tự chủ nguồn thức ăn tại ấp Khánh Tân, xã Tân Khánh Hòa; Tổ hợp tác nuôi bò tại ấp Trần Thệ, xã Phú Mỹ; Tổ hợp tác nuôi cá nước ngọt tại ấp Cỏ Quen xã Phú Lợi…

Những kết quả này đã góp phần thực hiện thành công chủ trương của Nhà nước về giải quyết việc làm cho người DTTS và phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập trên địa bàn huyện Giang Thành. Từ đó tình hình kinh tế xã hội của huyện nói chung, đời sống đồng bào dân tộc Khmer nói riêng tiếp tục ổn định và có bước phát triển mới; góp phần giữ vững ổn định tình hình ANCT và TTATXH, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, thu nhập của nhân dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.

Tuy nhiên, hiện tại đa phần đồng bào Khmer trên địa bàn huyện vẫn sống chủ yếu bằng nghề nông, cụ thể là trồng lúa, chăn nuôi và trồng trọt hoa màu nhưng chưa đầu tư khoa học kỹ thuật phù hợp để đạt lợi nhuận cao. Bộ phận còn lại thì chủ yếu làm thuê các công việc nông nghiệp tại địa phương như phun xịt thuốc, làm cỏ, khuân vác… Công tác đào tạo nghề chưa gắn với giới thiệu việc làm, tạo việc làm tại chỗ nên nhiều lao động được sau đào tạo vẫn chưa có việc làm ổn định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn nhỏ lẻ, nhu cầu lao động không nhiều nên việc làm không đều, chưa ổn định. Nhìn chung, mức thu nhập của đồng bào Khmer trên địa bàn vẫn chưa cao, đời sống kinh tế cũng còn khó khăn nhất định.

Trước hết, xét về tập quán, thói quen sinh hoạt, đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc Khmer phần lớn gắn với tập quán sản xuất nhỏ. Chủ yếu là sản xuất nông nghiệp như trồng lúa; chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh cá và nghề thủ công. Đa số đồng bào sinh sống bằng nghề nông, định cư ở địa bàn nông thôn, ngại đi làm ăn xa, tuy nhiên phần lớn lại thiếu vốn, đất sản xuất, khoa học kỹ thuật… Xác định đời sống của đồng bào Khmer trên địa bàn huyện còn nhiều khó khăn so với các khu vực khác do kinh tế chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, làm thuê, nhiều hộ dân thiếu vốn và tư liệu sản xuất. Từ đó, đề xuất các nhóm giải pháp khả thi góp phần giải quyết việc làm cho đồng bào Khmer tại huyện Giang Thành cụ thể như sau:

Một là, giải pháp về công tác quản lý, tổ chức thực hiện; tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số.

- Đề nghị Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Dân tộc tỉnh và các sở, ngành có liên quan tiếp tục hướng dẫn tổ chức thực hiện các chính sách, giải pháp, chủ trì các hoạt động dạy nghề, giải quyết việc làm cho lao động dân tộc thiểu số.

- Huyện ủy, UBND huyện Giang Thành tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm trên địa bàn. Tập trung đẩy mạnh công tác đào tạo nghề gắn với phát triển kinh tế - xã hội địa phương, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ giải pháp trọng tâm đã đề ra từ đầu nhiệm kỳ nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Hai là, giải pháp về chuyển dịch kinh tế, thay đổi tư duy làm ăn của người dân, lao động trong đồng bào dân tộc.

- Xác định cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện hiện nay, gắn với ngành nghề đồng bào dân tộc Khmer cần được đào tạo. Để người lao động có thể tham gia ngay trong quá trình từng bước chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, dịch vụ, kinh tế cửa khẩu, các sản phẩm du lịch sinh thái tại địa phương.

- Tập trung định hướng tầng lớp thanh niên trong đồng bào Khmer về khởi nghiệp, có nghề nghiệp trong tay nhằm thay đổi nhận thức; khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên trong đồng bào dân tộc Khmer. Thay đổi nhận thức về lao động có trình độ, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật cao.

- Tăng cường và đổi mới các hình thức giáo dục, đào tạo cho đối với cộng đồng Người Khmer. Tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở cho đồng bào dân tộc Khmer trong vùng nhằm từng bước nâng cao dân trí. Vận động tham gia các lớp đào tạo nghề theo nhu cầu, sở thích, theo đặc thù kinh tế của từng địa phương... để giúp thanh niên nghèo dân tộc Khmer có việc làm, tăng thu nhập.

Ba là, giải pháp về tập trung giải quyết việc làm tại chỗ.

- Đề nghị tỉnh nghiên cứu tổ chức hội nghị thu hút đầu tư vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm giới thiệu tiềm năng, lợi thế, cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm cung cấp thông tin, quảng bá cơ hội đến các nhà đầu tư đang quan tâm và có nhu cầu đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh ở huyện Giang Thành.

- Trong thời gian tới, huyện sẽ tập trung huy động các nguồn lực, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào huyện nhằm phát triển các tiềm năng, thế mạnh của huyện để vừa phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, vừa tạo ra việc làm tại chỗ cho người lao động trên địa bàn. Tận dụng điều kiện thuận lợi về địa lý, tự nhiên, tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp, trong đó có sản xuất lúa và nuôi trồng thủy sản. Vận động đồng bào Khmer tích cực tham gia vào các Hợp tác xã, Tổ hợp tác, khai thác tối đa các kỹ thuật tiến bộ, phát triển liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp.

- Thông qua các chương trình phát triển kinh tế, khuyến khích kinh tế tư nhân và kinh tế hộ gia đình; các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với các mô hình kinh tế trang trại, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững; khuyến khích và mở rộng hoạt động tạo việc làm cho lao động thuộc các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; xây dựng và phát triển hạ tầng giao thông, các công trình trọng điểm tại các xã, ấp có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Bốn là, giải pháp về chính sách xuất khẩu lao động, góp phần thay đổi tư duy, nâng cao chất lượng nguồn lực.

- Đề nghị ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cùng các Trung tâm Dịch vụ việc làm tích cực cung cấp thông tin, tư vấn, định hướng việc làm ở từng thị trường lao động nước ngoài. Qua đó người lao động, đặc biệt lao động người Khmer được cung cấp thông tin, giải đáp về chính sách, thị trường, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động; thông báo về các chính sách của Nhà nước hỗ trợ đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động. 

- Cần có sự thay đổi cho phù hợp như thời gian đào tạo dài hơn, yêu cầu trình độ ngoại ngữ thấp hơn, lựa chọn công việc phù hợp, quan tâm đến tâm lý các thanh niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Ngay từ khâu tổ chức, cũng cần bố trí 2-3 người lao động ở gần nhau để có thể hỗ trợ, động viên nhau ở nước ngoài.

- Huyện triển khai đầy đủ các chính sách hỗ trợ cho thanh niên dân tộc thiểu số đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Chỉ đạo các ngành, đoàn thể ở cơ sở tập trung tuyên truyền, vận động người lao động tham gia, yên tâm xuất khẩu lao động, tránh trình trạng do khác biệt về phong tục, tập quán mà muốn trở về nước. Lựa chọn cách tiếp cận, phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho đối tượng học sinh vừa tốt nghiệp THPT. Vì đây là nhóm lao động trẻ có nền tảng kiến thức cơ bản, dễ dàng tiếp cận ngôn ngữ, đáp ứng tiêu chí đi làm việc ở thị trường có thu nhập cao.

Năm là, giải pháp về liên kết đào tạo nghề, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết việc làm.

- Đề nghị Sở Lao động – Thương binh & Xã hội phối hợp, hỗ trợ huyện trong tuyển sinh đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của người dân; liên kết với các doanh nghiệp để tuyển dụng lao động là ĐBDTTS vào làm việc; đưa ra các chính sách hỗ trợ về học nghề, chế độ đãi ngộ cho lao động đi làm việc trong doanh nghiệp.

- Tổ chức đào tạo nghề theo đơn đặt hàng, việc liên kết đào tạo với doanh nghiệp để thực hiện đào tạo nghề theo đơn đặt hàng nếu làm tốt, sẽ là hướng đi đúng đắn để giải quyết việc làm cho thanh niên đồng bào dân tộc trên địa bàn huyện.

- Tỉnh cần tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, tài chính và nguồn nhân lực cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Trong đó, cần đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên dạy nghề; đồng thời đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy nghề phù hợp với đối tượng là lao động DTTS. Bên cạnh đó, chú trọng đào tạo nghề gắn kết với doanh nghiệp và thị trường lao động để bảo đảm cho học viên DTTS có việc làm sau khi tham gia các khóa học nghề.

* Về một số đề xuất, kiến nghị:

- Đề xuất các cơ quan chuyên môn của tỉnh nâng cao định hướng giáo dục, đào tạo ngành nghề chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa, giai đoạn chuyển đổi số.

- Tổ chức nghiên cứu quy hoạch vùng, tiểu vùng phù hợp, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và tạo việc làm, cho lực lượng lao động địa phương.

- Tận dụng điều kiện về đất đai, khoáng sản (than bùn), đề xuất tỉnh có chính sách thu hút đầu tư, phát triển các loại hình kinh tế, hợp tác sản xuất để tạo việc làm tại chỗ cho người lao động./.